Hạt giống là một căn cứ cơ bản về sự được mùa của cây trồng nông nghiệp. Nếu có những hạt giống tốt cùng với điều kiện thích hợp, có thể nói việc cây trồng được mùa đã thành công.
Trong sản xuất nông nghiệp, có 3 loại hạt giống: một là do noãn cây phát dục thành như loại đậu, cây bông, rau cải dầu… hai là quả được coi là nguyên liệu gieo giống như lúa, mạch, ngô… trên thực tế là quả hạt; ba là cơ quan dinh dưỡng của cây trồng loại thân rễ, ví dụ rễ thân như khoai lang, và thân củ như khoai tây, đốt mía.
Hạt giống nhân tạo không phải là những hạt giống nói trên, mà là con người sử dụng phương pháp trồng trọt có tổ chức, từ các cơ quan như thân, hoặc lá của thực vật tạo ra thể dạng mầm hoặc phôi, rồi bọc bên ngoài chúng một lớp keo khiến cho nó có chức năng như hạt giống bình thường.
Ví dụ hạt giống nhân tạo cây cần: Trước tiên cắt thân non của mầm cây cần tạp chủng thành miếng nhỏ, dưới điều kiện môi trường vô khuẩn, gieo trồng chúng trong chất cấy vi sinh vật, hình thành nên tổ chức callus màu vàng nhạt. Tiếp đó, mang tổ chức callus này tới nuôi trồng ở trên chất cấy vi sinh vật khác, các tế bào bắt đầu phân hoá, dần dần hình thành các thể dạng phôi hình nguyên bào màu xanh, cũng gọi là “phôi tế bào thể”. Sau đó, bọc một màng keo ngoài thể dạng phôi, như vậy thành một viên hạt giống keo. Để tăng sức sống cho hạt giống nhân tạo, cải thiện môi trường sinh sống của nó thì thêm vào trong gien những vi sinh vật hữu dụng, thuốc trừ cỏ, thuốc nông nghiệp khác, giúp nó có những ưu điểm mà hạt giống tự nhiên không có. Do chất gien này gặp nóng dễ tan ra dính lại với nhau, cho nên bên ngoài hạt giống còn nên bọc một lớp “vỏ hạt”. Sau khi hạt giống nhân tạo được gieo vào trong đất, “chiếc áo khoác” liền nhờ tác dụng hạ giải của sinh vật mà tự động rơi ra.
Trong công ti sản xuất hạt giống cây trồng, một cây cần tạp giống có thể lấy được mấy triệu thể dạng phôi. Mỗi một thể dạng phôi tương đương với một hạt giống tạp giao. Sản xuất hạt giống nhân tạo là một kĩ thuật sinh vật cao mới, nó có rất nhiều ưu điểm, như thể dạng phôi sinh sôi nhanh, số lượng nhiều hơn so với việc nhân giống trong ống nghiệm, giảm giá thành và tiết kiệm sức lực, bởi vì thể dạng phôi là sinh sản vô tính, cho nên đời sau của nó có những ưu thế tạp chủng cố định.